Đo thông số ánh sáng.
Trong những đọan film giới thiệu cách làm film, thường thấy cái ông quay film hay cầm cái thiết bị để đo ánh sáng trước khi quay. Vậy tại sao phải làm như vậy và làm nó như thế nào?
Thực ra, có 1 điều rât ngớ ngẩn là: Các thiết bị ghi hình số (camera, camcoder) ở thời đại này đều đã tích hợp sẵn thiết bị cảm biết và đo trực tiếp ánh sáng cần thiết bên trong, nên với các nhà quay phim chuyên nghiệp thì đo đạt như trước ko còn qúa quan trọng nữa. Tuy nhiên, với những thắc mắc cơ bản, cần phải trả lời các câu hỏi trên để có thể bổ sung những kiến thức cơ bản ban đầu, rồi sau đó có bỏ qua hay không là tùy mỗi người. Do đó, đo ánh sáng là kiế thức nền cơ bản thực sự cần có cho người làm video (phần lớn ở VN), còn nếu đang họat động trong lĩnh vực phim thì điều này quan trọng hơn cũng như phải biết về TỶ LỆ XÁM (The Gray Scale)
Có 2 kiểu đo ánh sáng cơ bản. Đo Ánh sáng tới (Incident Light) và Đo Ánh sáng phản xạ - hay được gọi là SPOT (reflection Light). 2 kiểu đo này có thể có cách tiến hành khác nhau, nhưng chung quy lại mục đích điều là lấy thông tin về ánh sáng tác động lên đối tượng cần ghi hình như thế nào và những thông tin đó được người xử lí thiết bị số điều chỉnh thiết bị phù hợp theo điều kiện và mục đích ban đầu. Trước khi tìm hiểu thiết bị đo làm viêc như thế nào, cần nhìn qua vài lọai thiết bị đo và chúng được sử dụng như thế nào trong Film và Video.

Ánh sáng (AS) có thể được định lượng theo những thông số như f/stops, Footcandle, Lux. Vậy thì các thiết bị đo ánh sáng thể hiện thông số f/stops (f/s) là vì do các thiết bị ghi hình số cũng được cụ thể hóa bằng đơn vị f/s. Có những thiết bị đo AS bằng đơn vị Footcandle, sau đó lại chuyển thành f/s. Footcandle là lượng AS thu được của 1 ngọn nến ở khỏan cách 1 bàn chân. Lux là các gọi của ChâuÂu của thông số Footcandle. Túm lại, thông dụng nhất luôn luôn là f/s.
Nền tảng cơ bản.
Cần "nói" trước cho thiết bị đo AS (= TBD) một vài thông tin thiết lập của thiết bị ghi hình số (= TBGH). Shutter Speed (Tốc độ mở cửa chớp). Nếu đang làm việc với Video (NTSC 30fps) thì nên thiết lập 1/60 của 1 giây. Còn nếu đang làm với Film (thường là 24fps hoặc 30fps) thì nên ghi nhớ 1 điều sau: Không giống như Video (1 frame hình được ghi hình bởi 2 frame với dòng quét chẵn lẻ) Film thì khi ghi hình 1 frame (exposure, expose ...), cửa chớp của TBGH Film sẽ mở trong nữa thời gian và đóng trong nữa thời gian còn lại. Như vậy, với Film 30fps, thời gian để ghi hình 1 frame la 1/2 thời gian Shutter. Vậy nên nếu ghi hình Film ở mode 30fps thì nên thiết lập f/s = 1/60. Nếu là 24fps thì thiết lập 1/50.
Sau khi thiết lập thông số f/s, tiếp theo sẽ là độ nhạy sáng (Light sensitivity) của lọai FIlm (băng) dùng để ghi hình. Thường gọi là tỷ số ISO (ISO Rating). Có những băng rất nhạy sáng, những lọai khác thì yếu hơn. Nên thiết lập thông số này trên TBD gần giống với thông số của băng quay. Thiết nghĩ cũng cần nắm sơ wa thông số ISO. Ví dụ khi ghi hìng video gia đình với băng có ghi ISO 100 hay ISO 200, thì đơn giản là độ nhạy sáng của ISO 200 gấp 2 lần độ nhạy sáng của ISO 100. Nhạy sáng ở đây có nghĩa là ISO 200 cần thồi gian ít hơn 2 lần so với ISO 100 để ghi lại hình ảnh trong cùng 1 môi trường AS.
OK, xong rồi thì bắt đầu đo thôi nhỉ? Có 2 mục đích đo. Đo AS tới và đo AS phản xạ.
AS Tới.
Là đo AS từ 1 nguồn sáng tác động lên 1 đối tượng. Thông thường TBD đặt ở trước đối tượng cần đo.

Nếu thiết lập độ mở (IRIS) theo thông số f/s ma TBD AS đã đo được thì giá trị khuyết tán AS (diffuse) của đối tượng được ghi lại 1 cách chính xác trên băng, ngay cả bóng đỗ hay những điểm sáng cũng thế. Nếu làm đúng theo những thông số đưa ra của TBD AS, thì tông xám sẽ được thể hiện đúng tông xám, tông trắng sẽ được thể hiện đúng tông trắng, tông đen sẽ được thể hiện đúng tông đen.
AS Phản xạ.
AS Phản xạ là AS đã bị phản ngược lại sau khi đi đến bề mặt đối tượng. AS đi đến bề mặt đối tượng có thể bị hấp thụ hay phản xạ lại nên thường dùng TBD AS để xác định lượng AS phản xạ ngược ra. Đứng tại điểm đặt camera, đặt mắt ngắm vào TBD AS và hướng đến mục tiêu cần đo. Như thế, chúng ta sẽ thấy độ phản xạ như TBGH nhìn thấy.
Theo quan điểm ban đầu, tông giữa xám là những nơi phản chiếu 18% AS tới. Nếu thiết lập độ mở của TBGH theo thông số của TBD AS chỉ ra, thì ta sẽ ghi được mức tông 18%. Trong 1 cảnh có những điểm đen, trắng và những màu khác. Theo thông số đo được ở TBD AS PX ta sẽ thiết lập TBGH sao cho sẽ ghi được tông xám 18% đúng trên băng.
Khó hiểu và lung tung wá đi. Tùy theo khoang cách, mỗi khi đo được AS phản xạ của bức tường hay đám mây. Sau đó bạn cần tính tóan để xác định độ mở ống kính theo các thông số mà TBD AS có được để sao cho có được vùng trắng tương ứng trên phim. TBD AS PX nói cho chún ta biết làm thế nào để bức tường trắng đó sẽ có màu xám 18% trên băng, căn cứ vào đó, để có được bức tường đúng trắng cần phải mở iris ống kính 2 lần cao hơn thông số f/s của TBD. Nếu là vùng đen, TBD AS PX sẽ nói là với thông số nào sẽ làm cho màu đen sẽ là màu xám 18% trên băng, từ đó chúng ta sẽ đóng iris ống kính xuống 2+1/2 hay 3 lần thông số có được trên TBD để bức tường xuất hiện trên băng là màu đen.
Một ví dụ khác là diễn viên. TBD sẽ nói chúng ta phải làm sao để da của diễn viên trở thành xám, nhưng bạn muốn rằng da người phải được đọc sáng hơn 1 đơn vị f/s của 18% xám (????). Tiến hành như sau: Lấy thông số f/s của da người từ TBD (vd, 1/5.6) điều chỉnh xuống 1 bước f/s (còn là 1/4.0) sao cho vùng da người đang đo chỉ là 18% xám (tông, ko phải màu xám). Sau đó, sẽ điều chỉnh iris của ống kính sao cho da người đạt được là tông xám trên băng ghi hình. Chúng ta thá6 y rằng 18% xám là thường được dùng rất nhiều khi điều chỉnh sáng trước khi ghi hình, do đó, người làm công tác ghi hình thường mang theo những bảng so sánh màu bên mình. Điều này giúp họ có thể định lượng hóa AS và tông màu của vật cần ghi hình, tất nhiên là có trợ giúp của TBD AS.
OK, tiếp theo thì tỷ lệ ISO thiết lập trên TBD AS giúp được gì cho từng độ nhạy sáng của từng lọai băng lưu trữ???????
Rất dễ hình dung khi dùng 1 bảng so sánh độ xám hay 1 bảng so sánh màu, được đặt trong vùng AS cần kiểm tra. Dùng wavwform để thiết lập đúng, tiếp theo sẽ thiết lập Iris của ống kính đúng theo thông số hiển thị trên waveform và cố định nó lại (vd: 1/2.8). Lúc này ta có iris của ống kính, điều chỉnh ISO trên TBD AS cho đến khi có được f/s gần bằng của ống kính camera. Mỗi f/s sẽ cho ta 1 ISO tương ứng cho Camera.
:) Đôi khi, bộ cảm biến AS tích hợp bên trong TBGH số không phù hợp với số liệu của TBD AS. Khi làm việc với Video, thử kiểm tra vài giá trị tương đối, vd như 1 cái ghế ở cạnh 1 cái bàn mới. Nếu 2 thông số khác nhau 1 chút xíu thì, OK. tiếp tục check kết qủa sau cùng trên monitor preview...:)
Nếu đã hết thấy lung tung thì tại sao không thử ngay chứ (chỉ với những người dùng video thôi, đưng mang film ra thử nhé, hehehe)
Thực ra, có 1 điều rât ngớ ngẩn là: Các thiết bị ghi hình số (camera, camcoder) ở thời đại này đều đã tích hợp sẵn thiết bị cảm biết và đo trực tiếp ánh sáng cần thiết bên trong, nên với các nhà quay phim chuyên nghiệp thì đo đạt như trước ko còn qúa quan trọng nữa. Tuy nhiên, với những thắc mắc cơ bản, cần phải trả lời các câu hỏi trên để có thể bổ sung những kiến thức cơ bản ban đầu, rồi sau đó có bỏ qua hay không là tùy mỗi người. Do đó, đo ánh sáng là kiế thức nền cơ bản thực sự cần có cho người làm video (phần lớn ở VN), còn nếu đang họat động trong lĩnh vực phim thì điều này quan trọng hơn cũng như phải biết về TỶ LỆ XÁM (The Gray Scale)
Có 2 kiểu đo ánh sáng cơ bản. Đo Ánh sáng tới (Incident Light) và Đo Ánh sáng phản xạ - hay được gọi là SPOT (reflection Light). 2 kiểu đo này có thể có cách tiến hành khác nhau, nhưng chung quy lại mục đích điều là lấy thông tin về ánh sáng tác động lên đối tượng cần ghi hình như thế nào và những thông tin đó được người xử lí thiết bị số điều chỉnh thiết bị phù hợp theo điều kiện và mục đích ban đầu. Trước khi tìm hiểu thiết bị đo làm viêc như thế nào, cần nhìn qua vài lọai thiết bị đo và chúng được sử dụng như thế nào trong Film và Video.

Ánh sáng (AS) có thể được định lượng theo những thông số như f/stops, Footcandle, Lux. Vậy thì các thiết bị đo ánh sáng thể hiện thông số f/stops (f/s) là vì do các thiết bị ghi hình số cũng được cụ thể hóa bằng đơn vị f/s. Có những thiết bị đo AS bằng đơn vị Footcandle, sau đó lại chuyển thành f/s. Footcandle là lượng AS thu được của 1 ngọn nến ở khỏan cách 1 bàn chân. Lux là các gọi của ChâuÂu của thông số Footcandle. Túm lại, thông dụng nhất luôn luôn là f/s.
Nền tảng cơ bản.
Cần "nói" trước cho thiết bị đo AS (= TBD) một vài thông tin thiết lập của thiết bị ghi hình số (= TBGH). Shutter Speed (Tốc độ mở cửa chớp). Nếu đang làm việc với Video (NTSC 30fps) thì nên thiết lập 1/60 của 1 giây. Còn nếu đang làm với Film (thường là 24fps hoặc 30fps) thì nên ghi nhớ 1 điều sau: Không giống như Video (1 frame hình được ghi hình bởi 2 frame với dòng quét chẵn lẻ) Film thì khi ghi hình 1 frame (exposure, expose ...), cửa chớp của TBGH Film sẽ mở trong nữa thời gian và đóng trong nữa thời gian còn lại. Như vậy, với Film 30fps, thời gian để ghi hình 1 frame la 1/2 thời gian Shutter. Vậy nên nếu ghi hình Film ở mode 30fps thì nên thiết lập f/s = 1/60. Nếu là 24fps thì thiết lập 1/50.
Sau khi thiết lập thông số f/s, tiếp theo sẽ là độ nhạy sáng (Light sensitivity) của lọai FIlm (băng) dùng để ghi hình. Thường gọi là tỷ số ISO (ISO Rating). Có những băng rất nhạy sáng, những lọai khác thì yếu hơn. Nên thiết lập thông số này trên TBD gần giống với thông số của băng quay. Thiết nghĩ cũng cần nắm sơ wa thông số ISO. Ví dụ khi ghi hìng video gia đình với băng có ghi ISO 100 hay ISO 200, thì đơn giản là độ nhạy sáng của ISO 200 gấp 2 lần độ nhạy sáng của ISO 100. Nhạy sáng ở đây có nghĩa là ISO 200 cần thồi gian ít hơn 2 lần so với ISO 100 để ghi lại hình ảnh trong cùng 1 môi trường AS.
OK, xong rồi thì bắt đầu đo thôi nhỉ? Có 2 mục đích đo. Đo AS tới và đo AS phản xạ.
AS Tới.
Là đo AS từ 1 nguồn sáng tác động lên 1 đối tượng. Thông thường TBD đặt ở trước đối tượng cần đo.

Nếu thiết lập độ mở (IRIS) theo thông số f/s ma TBD AS đã đo được thì giá trị khuyết tán AS (diffuse) của đối tượng được ghi lại 1 cách chính xác trên băng, ngay cả bóng đỗ hay những điểm sáng cũng thế. Nếu làm đúng theo những thông số đưa ra của TBD AS, thì tông xám sẽ được thể hiện đúng tông xám, tông trắng sẽ được thể hiện đúng tông trắng, tông đen sẽ được thể hiện đúng tông đen.
AS Phản xạ.
AS Phản xạ là AS đã bị phản ngược lại sau khi đi đến bề mặt đối tượng. AS đi đến bề mặt đối tượng có thể bị hấp thụ hay phản xạ lại nên thường dùng TBD AS để xác định lượng AS phản xạ ngược ra. Đứng tại điểm đặt camera, đặt mắt ngắm vào TBD AS và hướng đến mục tiêu cần đo. Như thế, chúng ta sẽ thấy độ phản xạ như TBGH nhìn thấy.
Theo quan điểm ban đầu, tông giữa xám là những nơi phản chiếu 18% AS tới. Nếu thiết lập độ mở của TBGH theo thông số của TBD AS chỉ ra, thì ta sẽ ghi được mức tông 18%. Trong 1 cảnh có những điểm đen, trắng và những màu khác. Theo thông số đo được ở TBD AS PX ta sẽ thiết lập TBGH sao cho sẽ ghi được tông xám 18% đúng trên băng.
Khó hiểu và lung tung wá đi. Tùy theo khoang cách, mỗi khi đo được AS phản xạ của bức tường hay đám mây. Sau đó bạn cần tính tóan để xác định độ mở ống kính theo các thông số mà TBD AS có được để sao cho có được vùng trắng tương ứng trên phim. TBD AS PX nói cho chún ta biết làm thế nào để bức tường trắng đó sẽ có màu xám 18% trên băng, căn cứ vào đó, để có được bức tường đúng trắng cần phải mở iris ống kính 2 lần cao hơn thông số f/s của TBD. Nếu là vùng đen, TBD AS PX sẽ nói là với thông số nào sẽ làm cho màu đen sẽ là màu xám 18% trên băng, từ đó chúng ta sẽ đóng iris ống kính xuống 2+1/2 hay 3 lần thông số có được trên TBD để bức tường xuất hiện trên băng là màu đen.
Một ví dụ khác là diễn viên. TBD sẽ nói chúng ta phải làm sao để da của diễn viên trở thành xám, nhưng bạn muốn rằng da người phải được đọc sáng hơn 1 đơn vị f/s của 18% xám (????). Tiến hành như sau: Lấy thông số f/s của da người từ TBD (vd, 1/5.6) điều chỉnh xuống 1 bước f/s (còn là 1/4.0) sao cho vùng da người đang đo chỉ là 18% xám (tông, ko phải màu xám). Sau đó, sẽ điều chỉnh iris của ống kính sao cho da người đạt được là tông xám trên băng ghi hình. Chúng ta thá6 y rằng 18% xám là thường được dùng rất nhiều khi điều chỉnh sáng trước khi ghi hình, do đó, người làm công tác ghi hình thường mang theo những bảng so sánh màu bên mình. Điều này giúp họ có thể định lượng hóa AS và tông màu của vật cần ghi hình, tất nhiên là có trợ giúp của TBD AS.
OK, tiếp theo thì tỷ lệ ISO thiết lập trên TBD AS giúp được gì cho từng độ nhạy sáng của từng lọai băng lưu trữ???????
Rất dễ hình dung khi dùng 1 bảng so sánh độ xám hay 1 bảng so sánh màu, được đặt trong vùng AS cần kiểm tra. Dùng wavwform để thiết lập đúng, tiếp theo sẽ thiết lập Iris của ống kính đúng theo thông số hiển thị trên waveform và cố định nó lại (vd: 1/2.8). Lúc này ta có iris của ống kính, điều chỉnh ISO trên TBD AS cho đến khi có được f/s gần bằng của ống kính camera. Mỗi f/s sẽ cho ta 1 ISO tương ứng cho Camera.
:) Đôi khi, bộ cảm biến AS tích hợp bên trong TBGH số không phù hợp với số liệu của TBD AS. Khi làm việc với Video, thử kiểm tra vài giá trị tương đối, vd như 1 cái ghế ở cạnh 1 cái bàn mới. Nếu 2 thông số khác nhau 1 chút xíu thì, OK. tiếp tục check kết qủa sau cùng trên monitor preview...:)
Nếu đã hết thấy lung tung thì tại sao không thử ngay chứ (chỉ với những người dùng video thôi, đưng mang film ra thử nhé, hehehe)
0 comments :
- - - Filmmaker - Producer - Storyteller - - -
statistics
Share this Post
Blogger news
Blogroll
About
Contributors
- Pro Gamma
- I am TV producer. I live at HoChiMinh City, VietNam. Prepare to public first my App: Wedding.
Được tạo bởi Blogger.
Đăng nhận xét